Năm ngọ nói
về ngựa
Năm con rắn (Quý tỵ) sắp đi qua, năm
con ngựa (Giáp ngọ)chuẩn bị đến. Nhân sự chuyển giao nầy, ta hãy tìm hiểu đôi
điều về chủ nhân của năm mới thể hiện qua tục ngữ ca dao của dân tộc ta. Quả
thật, cứ mỗi năm lại có một con vật làm chủ nhân để cầm chịch điều khiển sự vận
hành của thời gian trong ý thức về tâm linh của con người, không những chỉ có ở
nước ta mà ở nhiều nước trên thế giới cũng vậy, chỉ có khác là thứ tự nhiều con
vật làm chủ trong một năm không giống nhau.
Hình ảnh con ngựa được thể hiện qua
tục ngữ ca dao trong kho tàng văn chương bình dân (Văn học dân gian) của nước
ta khá phong phú và về ý nghĩa thì khen cũng nhiều mà chê cũng không phải là
ít. Nhưng tựu trung hình ảnh con ngựa qua ca dao tục ngữ dù khen hay chê thì mục
đích chính cũng là để giáo dục cho con người hướng đến cái thiện, cái tốt cái
đẹp và lên án những thói hư tật xấu mà thôi.
Hình
ảnh con ngựa được thể hiện qua tục ngữ như sau:
- Thay ngựa giữa dòng hay Thay ngựa đổi
chủ: nói đến sự tráo trở,phản bội
- Được voi đòi tiên hay Được đầu voi đòi
đầu ngựa: nói lên lòng tham lam của
con người.
- Đường dài mới biết ngựa hay: Nói lên cái ý chí và nghị lực.
- Hàm chó,vó ngựa,cựa gà,ngà voi: Nói về cái phúc và họa ở đời.
- Ngựa quen đường cũ hay Ngưu tầm ngưu
mã tầm mã: Phê phán những thói hư tật
xấu .
- Mã đáo thành công: Nói về sự thành công thắng lợi khi chúc tụng nhau thực
hiện một việc gì cao cả.
- Ngựa non háu đá: Phê phán thói tự cao tự đại
- Cưỡi ngựa xem hoa: Phê phán thói quan liêu, hời hợt thiếu tinh thần trách
nhiệm.
- Đầu trâu mặt ngựa: Ám chỉ những kẻ cường hào, hay kẻ thù xâm lược.
- Thẳng như ruột ngựa: nói lên tính ngay thẳng cương trực.
- Da ngựa bọc thây: Nói đến sự chiến đấu dũng cảm ngoan cường trong chiến
trận thời xa xưa.
- Đơn thương độc mã:Chỉ sự hành động của một người nào đó không có sự trợ
giúp của những người khác mà đạt được mục đích bằng ý chí nghị lực và quyết tâm
của mình.
- Chiêu binh mãi mã:Nói đến sự chuẩn bị lực lượng về quân sự của một người
anh húng để làm việc lớn cho quốc gia dân tộc.
- Làm thân trâu ngựa:Nói đến cảnh người dân bị áp bức bóc lột.
- Lên xe xuống ngựa:Nói đến cảnh giàu sang
- Ngựa hay lắm tật: Nói đến sự trở chứng,hay muốn làm cho người ta phải
chìu lụy mình vì cậy mình có tài.
- Ngựa bất kham:Ý chỉ một con người bướng bỉnh bất chấp tất cả làm
theo ý chủ quan của mình.
- Tái ông mất ngựa:Câu chuyện nói về cái phúc cái họa ở đời là khôn
lường.
- Ngựa lồng thì cóc cũng lồng: Ý chỉ sự đua đòi hay bắt chước một cách lố bịch.
- Vành móng ngựa :Là biểu tượng của luật pháp thời xưa mang hình cái
móng ngựa.Khi xử tội và thi hành án bằng
hình thức cho ngựa dẫm đạp hoặc cột dây vào chân tay vào người phạm nhân rồi
thúc ngựa kéo cho đến chết gọi là “Tứ mã phanh thây”.
- Voi dày ngựa xé:Hình thức xử phạt phạm nhân thời trung cổ và phong
kiến
- Bóng câu qua cửa sổ:Ý chỉ thời gian vút qua nhanh chóng.
- Vó câu muôn dặm:Hình ảnh ướt lệ của người chinh phu trên sa trường
trong văn thơ thời xa xưa.
- Ngựa chạy có dòng,chim bay có bạn:Nói lên sự đoàn kết,gắn bó
- Ngựa nào gác được hai yên:Ý chỉ đấng trượng phu không thờ hai chúa.
- Quân khuyển mã:Chỉ loại người đê tiện hèn hạ.
- Đồ đĩ ngựa:có ý xấu nói về những người phái yếu trong lĩnh vực
sinh lý.
- Đau như ngựa đá:Ý nói về sự phản bội.
- Ngựa chứng:Ý chỉ sự bất trị.
- Quất ngựa truy phong:Hàm nghĩa xấu xa chỉ loại người khi đã thực hiện hành
động vô đạo đức,hoặc khi đã đạt được mục đích cá nhân thì tháo chạy.
- Ngã ngựa:Ám chỉ sự thất bại hay đầu hàng csa một việc khó khăn.
- Chữ tốt xem tay,ngựa hay xem móng:Nói lên kinh nghiệm trong cuộc sống.
- Nhất ngôn ký xuất,tứ mã nan truy:Nhắc nhở ta phải hết sức cẩn trọng trong lời nói.
- Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ:Nói lên tinh thần tương thân tương ái,sự đồng cảm sẻ
chia yêu thương và đoàn kết.
Trong ca dao hình ảnh con ngựa cũng
được khắc họa một cách đẹp đẻ và hào phóng.Về ý nghĩa thì các tác giả bình dân
xưa mượn hình ảnh con ngựa để nói lên cảnh giàu sang phú quý và chủ yếu đề cập
nhiều đến tình yêu lứa đôi đồng thời qua đó cũng có những lời phê phán nhẹ
nhàng về thói hư tật xầu,về tình đời tình người.
- Ngựa hay chẳng quản đường dài
Nước kiệu mới bắt tài trai anh hùng.
- Bây giờ kẻ Bắc người Nam
Ngựa Hồ,chim Việt biết làm sao đây.
- Em có chồng rồi như ngựa có cương
Ngựa em em đứng đường trường anh đi.
- Sông sâu ngựa lội ngập kiều(Cầu)
Dẫu anh có phụ còn nhiều người thương.
- Tiếc thay con ngựa cao bành
Đẻ cho chú ấy tập tành sao nên.
- Ngựa ô không cưỡi,cưỡi bò
Đường ngay không chạy chạy dò đường
quanh.
- Đường dài
ngựa chạy biệt tăm
Người thương có nghĩa trăm năm cũng chờ.
- Năm con ngựa bạch ngang sông
Năm gian nhà ngói đèn trong đèn ngoài.
- Ngựa ô anh thắng kiệu vàng
Anh tra khớp bạc đưa nàng về dinh.
- Ngựa le te cũng đến bến giang
Voi đủng đỉnh cũng sang qua đò.
- Thời gian ngựa chạy tên bay
Hết trưa lại tối ,hết ngày lại
đêm.
- Đường dài mới biết ngựa hay
Xa nhau mới biết tình này cạn
sâu.
- Dầu ai lên ngựa xuống kiều
Ta đây thủng thỉnh xế chiều hẵn
hay.
- chồng người xe ngựa người
thương
Chồn em khố đũi em
thương em chìu.
- Đường dài ngựa chạy
sút kiều(cầu)
Ve sành hở nắp rượu
điều lãng xao.
- Đường dài ngựa
chạy qua truông
Mãi mê con đĩ luông
tuồng bỏ con.
- khôn ngoan ở đất
nhà bần
Dù che ngựa cỡi đến
đâu vẫn hèn.
- Giàu thì cưỡi
ngựa mà đi
Nghèo thì tốt gánh
sá chi đường dài.
- Trước đường xe
ngựa bời bời
Bụi hồng mù mịt đâu
người mắt xanh.
- Có chồng như ngựa
có cương
Đắng cay thì
chịu,,yêu thương thì nhờ.
- Cha còn cắt cỏ
trên đồi
Mẹ còn cưỡi ngựa đi
mời ông trăng.
- Bước đường tiến
tới ông Nghè
Vinh quy bái tổ
ngựa xe tưng bừng.
- Ngựa ai buộc ngõ ông Cai
Hoàn ai mà lại đeo tai bà Nghè
Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè
Gà ai lại thả trước hè ông Cai.
- Rung rinh nước chảy qua đèo
Ngựa đua dưới nước thuyền chèo
trên non
Hỏi người chưa vợ chưa con
Đổ mồ hôi ướt áo phụ mẫu còn giặt
cho.
- Cây đa mô cao bằng cây đa Bàng
Lãnh
Đất mô thanh cảnh bằng đất Bảo An
Chỗ mô vui cho bằng chỗ Phố chỗ
Hàn
Dưới sông tàu chạy trên đàng ngựa
đua.
-Nghiêng tai hỏi nhỏ chút tình
Còn thương như cũ hay mình hết
thương
Chừng nào con ngựa rời cương
Thì em đây mới hết nhớ thương
chút tình.
- Cầm cân quên dốc quên lui
Cầm tiền mà chĩa mấy dui một tiền
Cầm roi lên ngựa quên yên
Qua sông quên chống con thuyền mà
qua.
- Chiều
chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội nhớ niêu nước
chè
Nhớ hồi lên ngựa xuống xe
Nhớ bát nước chè nhớ chén đường
non
Nhớ hồi cá trích y con
Thịt heo xắt lát lòng còn ước mơ
Nhớ khi rau muống bò bờ
Nhớ con nhộng ở trong tơ mới vào
Nhớ lê nhớ lựu nhớ đào
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.
-Chiều
chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn
ba chú lính đưa cô về Hàn
Cô về
cô chẳng về không
Ngựa ô
đi trước ngựa hồng đi sau
Mâm
trầu lại có mâm cau
Có
thằng nhỏ nhỏ đi sau quạt hầu.
Có một điều cũng xin được nói
thêm về những từ Ngựa,Ngọ và Mã.Về từ Mã là từ Hán Việt để chỉ con
Ngựa thì ai ai trong chúng ta cũng đều biết rồi.Nhưng tại sao khi nói về Ngọ
thì chúng ta lại cũng nghĩ ngay là con Ngựa.Vì rằng Ngọ là chi thứ 7 trong thập
nhị chi theo cách tính về thời gian và tuổi tác của người Phương Đông(Trong
khoảng 11 giờ -14 giờ).Mà biểu tượng của giờ Ngọ trong thập nhị chi là con Ngựa
nên khi nói đến Ngọ là chúng ta biết ngay là con Ngựa.
Nói đến Ngọ trong ca dao tục ngữ
cũng có những câu sau:
- Vái trời cưới được cô Năm
Làm chay bảy ngọ mười lăm ông
thầy.
- Giờ ngọ nước mắt nhỏ linh
Bưng chén cơm ăn lại nhớ tới bạn
mình thung dung.
- Giờ dần gà đã trở ba
Bước qua giờ mẹo trời đà rạng
đông
Thìn ,tỵ ra ngõ ngóng trông
Gặp nàng đi chợ đón đàng giải
phân
Bước qua giờ ngọ bóng sân
Ruột đau đứt đoạn mùi thân héo
sầu.
Trong văn học dân gian,hình ảnh
con ngựa còn được thể hiện qua câu đố và câu đối nhưng cũng không nhiều,có khi
người ta sử dụng từ đồng nghĩa để nói về con ngựa.Chẳng hạn như:
- Đầu ni cưa ngọn đầu tê cưa
ngọn.
- Con
gà nó mổ bông kê
Con ngựa ăn gò mã,con rồng về
Bình long.
Riêng hình ảnh con ngựa xuất hiện
trong nghệ thuật câu đối của văn học cổ điển và qua các giai thoại văn học nước
ta khá phong phú.
+ Câu đối của Mạc Đỉnh Chi đối
lại bọn quan Tàu khi cụ đi sứ:
-Xuất đối:Xúc ngã kỵ mã,Đông di
chi nhân giả,Tây di chi nhân giả
(Chạm phải ngựa ta,không rõ là
bọn Đông di hay Tây di vậy!)
-Đối:Át dư thừa dư,Nam phương chi
cường dư,Bắc phương chi cường dư(MĐC)
(Cưỡi lừa dạo chơi,mới biết người
Nam khỏe hay người Bắc khỏe).
+Câu đối khuyết danh:
-Xuất đối:Bà đồ nứa đi cáng võng
tre,đến bến trúc thở dài hí hóp
-Đối:Ông lái trâu ngồi xe chử
ngựa,qua đồi dê than vắn bị bò
-Xuất đối:kiến đậu cành cam bò
quấn quýt
-Đối:Ngựa về làng bưởi,chạy lanh
chanh.
+Câu đối của Xiển Bột:
-Áo đỏ lấm phân trâu
Dù xanh che dái ngựa.
Có một điều thú vị là trong văn
học viết của ta cũng có nhiều giai thoại về cách sử dụng về dấu câu mà tiêu
biểu như “Chuyện di chúc:Gia tài giao tử
tế ngoại tộc bất khả phân”.Thì chuyện về con ngựa cũng có một cách nói khá
thú vị: “Con ngựa đá con ngựa đá con ngựa
đá không đá con ngựa đá.”
Ngựa là loài động vật được thuần
hóa rất sớm và rất hữu ích cho cuộc sống con người,nó giúp con người làm phương
tiện vận chuyển,đi lại,và nhất là làm phương tiện trong chiến tranh từ thời xa
xưa bằng các đội kỵ binh xuất quỹ nhập thần.Ngoài ra,hình ảnh con ngựa cũng
xuất hiện sớm trong nền văn học nghệ thuật đông tây và nó là một trong 12 con
giáp trong văn hóa người phương đông.Hình ảnh con ngựa nói lên sự nhanh nhẹn
bền bĩ,biểu hiện cho sức mạnh và tốc độ,cho sự may mắn về tài lộc và cả sự
trung thành.Nhân năm mới Giáp Ngọ, có mấy lời xin được góp vui cùng các bạn và
chúc tất cả mọi người bước sang năm mới mạnh khỏe,hạnh phúc an khang.
Xin chúc mọi người “Mã đáo thành công” trong năm con ngựa.
30/12/2013
bài viết của bác Đồ gàn quá hay, quá súc tích. cảm ơn bác đã cung cấp nhiều tư liệu rất hay liên quan đến ngựa. riêng năm nay, blog lớp mình sẽ mã đáo thành công. Em tin tưởng như thế
Trả lờiXóa