Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

Bảo Đại



BẢO ĐẠI
Ông đã yên nghỉ tại nghĩa trang Passy, cách Trocadero một bức tường  và chỉ cần nghẹo cổ một cái là thấy tháp Eifel!
Ông nằm khiêm tốn bên cạnh muôn vàn các cựu cư dân Paris , trong một ngôi mộ bọc đá cẩm thạch , bong loáng  tinh tươm như hình ảnh vị cựu hoàng đế Bảo Đại, lúc nào cũng chỉnh chu  ca vat, complet… lúc sinh thời.
Tôi đến thăm ông vào một ngày đầu năm âm lịch,khoảng thời gian mà tại quê nhà mọi người đang xôn xao  đón  tết. Thôi thì như một nghĩa cử dành cho đồng hương xa xứ, chút cảm tình dành cho vị vua không may mắn của triều Nguyễn  mà mỗi lần nghĨ đến tôi luôn thoáng  chạnh lòng.
Nghĩa trang Passy nằm trên cao được bao bọc bởi một bức tường cũng khá cao nên khi đã vào hẳn bên trong bạn có cảm giác như đang ở trong một  nghĩa trang tại  một vùng quê yên tỉnh nào đó… xa  hẳn cái ồn ào của Paris, của tháp Eifel mà dân Trung quốc đang đổ bộ như đi hành quân chỉ cách có bức tường.
Dù đang là mùa đông nhưng hoa trên mộ ông vẫn tươi:  những bông hoa Hoàng Anh vàng  bé tí rực rỡ  gợi nhớ đến những đám Dã Quì của Đà Lạt, Hòang Triều Cương Thổ  một thời của ông.
Tôi tự hỏi có phải ai đó đã có ngụ ý khi trồng đám hoa nầy?
Mà có đâu! 
Những năm cuối đời ông đã rời Canne, xa Nam Phương Hoang Hậu  về sống với  người vợ cuối cùng  là bà Monique tại Paris. Người đàn bà nầy  đã sống với ông như một công dân Vĩnh Thụy, đã tổ  chức cho ông một tang lễ theo nghi thức Thiên chúa giáo, quên và từ chối các lễ nghi mà người ta(trong đó có Đại Sứ Quán  Việt Nam tại Paris) muốn dành cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Bà làm sao hiểu được vị Cựu hoàng ấy đã rời bỏ đất nước như thế nào,  đã ngậm ngùi nuốc  đắng cay  như thế nào khi bất lực nhìn người Pháp , người Mỹ  và gia đình Ngô Đình Diệm mặc cả số phận của đất nước mình…
Hoa Dã Quì Đà Lạt và Hoàng Triều Cương Thổ là của Nam Phương Hoàng Hậu, là của một thời bấn loạn mà bà không có mặt.Tôi tự nghĩ thế.
Dẹp hết những chính kiến của lịch sử bên nầy hay bên kia , bỏ ngoài tai những  luận điệu xuyên tạc, tôi chỉ thấy  ông là một con người  sinh ra không phải để làm vua . Một tâm hồn quá mẫn cảm không thể tồn tại trong cơn lốc đầy mưu mẹo của thời thế.
Số phận ông đã được mặc định trước.  Ông sinh ra là để làm vua  dưới quyền bảo hộ của người Pháp , ông  trở thành  sản phẩm của  Albert Saraut  và Pierre Pasquier  (toàn quyền Đông Dương thời ấy) và của nền Cộng Hòa thứ ba của Pháp: một ông vua kết hợp giũa  hiện đại và  truyền thống  (Bao Dai doit être tout a la fois  modern(francais) et traditionnel (annamite)
Ông trở về Việt Nam và ngồi vào chiếc ngai vàng đã lung lay. Mọi ước vọng cải cách của ông  hoặc  bị sự lạc hậu của vương triều Nguyễn  bác bỏ, hoặc bị chính quyền bảo hộ Pháp ngăn cản. Trước ông đã có Duy Tân, Hàm Nghi Thành Thái vì Chống  Pháp mà bị giết , bị đi đày tận đảo Reunion  hay Algerie xa xôi…
Ông phải làm gì để giữ  lại ngai vàng cho nhà Nguyễn?
Ông đã chọn  sự im lặng mà lịch sử gọi là  bù nhìn . Mọi uât ức của một ông vua yêu nước mà bất lực chỉ được giải tỏa khi ông trao ấn kiếm và tuyên bố :”thà làm công dân của một nước tự do còn hơn làm vua  một đất nước  nô lệ” .Ông  trở thành cố vấn của Chính Phủ  lâm thời Cách mạng Việt nam vào năm 1946.
Cứ tưởng trả áo mão , giả từ ngai vàng , xa Điện Thái hòa  là sống những ngày tự do nhưng  rồi con tạo  vẫn xoay  vần quanh ông.
Chính phủ Cách mạng lâm thời không là nơi mà vị Hoàng đế thoái  vị có thể  dung thân. Trong một chuyến đi công tác sang Hong Kong ông đã ở lại, đã chờ cơ hội của mình trong  niềm tin vào độc lập sẽ được người Pháp công nhận .
Rồi ông đã sa lầy  trong Hiệp ước Hạ Long,  sai lầm trong việc bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng.
Cái giá phải trả của sự sai lầm nầy là mọi nẽo đường về đều bị phong tỏa .Sau cuộc tổng tuyển cử Ngô Đình Diệm  lên ngôi Tổng thống, hình ảnh ông một lần nữa lu mờ bên cạnh  một chính quyền Viêt Nam thân Mỹ . Bảo Đại lại một lần nữa lưu vong nhưng lần lưu vong nầy là vĩnh viển.
Từ lâu đài  ở Canne, vị Hoàng đế không ngôi nầy đã dõi mắt nhớ thương về quê hương: nhớ da diết những khu rừng Ban Mê  với các cuộc đi săn thâu đêm suốt sáng, ngày nọ qua ngày kia, nhớ Đà Lạt có Hoàng Hậu có cả Thứ Phi, rồi nhớ Huế có Cung An Định nợi  mẹ ông, bà Từ Cung  vẫn còn ở đó, nhớ khu Thế Miếu uy nghiêm , nơi lưu giử quá khứ huy hoàng một thời của các vua cha…
Tất cả đã chấm dứt từ lúc ông thuyên bố thoái vị, ông là người khép lại trang sử  143 năm  của triều  NGUYỄN.
Ông mất năm 1997. Một vài dòng thông tin trên tờ Paris Match tóm lượt cuộc đời và thông báo sự ra đi của ông.
Chỉ có thế!
Gần mười tám năm trên đất Pháp, chỉ cách nơi ông an nghỉ một chặng tàu điện mà đến hôm nay tôi mới có ý định đến thăm mộ ông.Có lẽ vì không khí xuân xa quê, có lẽ vì tôi thích lang thang thăm thú , cũng có thể do tờ  tạp chí  l’Histoire số tháng 01/2014 LE VIETNAM depuis 2000ans đã nhắc đến ông…
Dù vì lí do gì tôi cũng đã đến đây, đã đứng vào cái nơi mà cách đây tám năm, năm 2006, bà vợ cuối cùng của ông và một số các  bạn hữu  ít nhiều có dính dáng đến triều Nguyễn ngày ấy cùng một số các cựu binh Đông Dương  đẫ đến đây hồi tưởng lại quá khứ một thời. Và trong cái không khí hoài cỗ ấy bà Monique NGUYỄN đã đắng cay  nhắc lại câu nói của Pierre Pasquier vào năm 1922, lúc  ông được  đăng quang Hoàng đế: “le jour ou vous avez reçu  le sceau de votre future destiné, deux grandes figures  se sont penchées  sur  vous, pour vous sourire et vous protéger : la Sage et Viel Annam et la douce et Belle France … »
Ngậm ngùi thay, cái nước Pháp thực dân  dịu dàng và đẹp đẽ ấy cũng đã về với cát bụi. Vị vua được hứa  hen bao điều    trong ngày đăng quang ấy đã không có được một quốc tang hoành tráng trong cung điện Hoàng Gia như  người anh em  cùng  thời Sihanouk, mãi mãi vẫn là một ông vua lưu vong 
                                                                                         Paris ngày đầu năm 2014.
                                                                                                 Thophanthi





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét