Tâm hồn người thầy
giáo trong vị danh tướng bất khả chiến bại.
Trên
thế giới, ngoài Đại tướng Võ Nguyên
Giáp, hiếm có vị tướng nào nhận được sự nể phục và kính trọng của những người
thua trận. Tướng De Castries- bại tướng trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã phải
thừa nhận: “Tôi hân hạnh được làm đối thủ của
Tướng Giáp, được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài giỏi như Tướng
Giáp. Tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”. Và, gần 60 năm sau trận Điện
Biên Phủ, khi được tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, mới đây tại Paris,
người Pháp đã làm lễ tưởng niệm vị danh tướng đã từng đánh bại đoàn quân viễn
chinh Pháp ở chiến trường Đông Dương.
Ai
cũng biết Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu
nước, phong trào Cần Vương, Duy Tân đã ảnh hưởng không nhỏ và nuôi dưỡng ý chí
giành độc lập trong lòng Võ Nguyên Giáp. Từ thời còn đi học ở trường Quốc Học
Huế, ông đã tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, Tháng 4/ 1927 ông bị
đuổi học vì đã tham gia tổ chức một cuộc bãi khóa. Sau khi rời trường, Võ
Nguyên Giáp được Nguyễn Chí Diểu
giới thiệu vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào
Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều
kiện tiếp xúc với những học thuyết dân tộc, cách mạng, đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp và tờ
báo Le Paria (Người cùng khổ) của Nguyễn
Ái Quốc. Từ đó, Võ Nguyên Giáp bắt đầu nghề làm báo và
bắt đầu sự nghiệp cách mạng.
Năm
1936, Võ Nguyên Giáp
tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương,
là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ
trong phong trào Đông
Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng
Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao
động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng
5 năm 1939, ông nhận dạy môn lịch
sử tại Trường Tư thục Thăng
Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc. Một năm sau, Ngày 3 tháng 5
năm 1940, Võ Nguyên
Giáp cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng
rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Nguyễn Ái Quốc. Thấy Võ Nguyên Giáp
là người có tư duy quân sự nên Nguyễn Ái Quốc đã liên hệ
với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử ông đến Diên An
để đào tạo chỉ huy. Tuy
nhiên, do tình hình thế giới có
nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp. Nguyễn Ái Quốc nhận định
tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh, cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón
thời cơ, do đó đã triệu hồi Võ Nguyên Giáp quay lại.
Đầu
năm 1941, Võ Nguyên Giáp cùng Nguyễn Ái Quốc trở về Cao Bằng.
Tại đây, ông tham gia xây
dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân
sự cho cán bộ Việt
Minh ở Cao Bằng. Ngày 22
tháng 12 năm 1944,
theo chỉ đạo của Hồ
Chí Minh (tên mới của Nguyễn Ái Quốc), ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người. Đây là tổ chức tiền thân
của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Mặc
dù chưa qua trường lớp đào tạo quân sự nào, tuy nhiên với khả năng thiên bẩm
của mình. Võ Nguyên Giáp đã làm nên những kỳ tích trong lịch sử chiến tranh
giải phóng dân tộc. Ngày 25
tháng 12 năm 1944,
Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần, đây là chiến
công đầu tiên, mở ra một thời kỳ mới cho cánh mạng Việt Nam.
Là
một thầy giáo dạy lịch sử, Võ Nguyên
Giáp đã nằm lòng nghệ thuật quân sự của cha ông ta trong các cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Trung Hoa. Đó là phương châm lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh,
lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là
Chiến tranh nhân dân, là sự kế thừa tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên và quan điểm quân sự Hồ Chí Minh.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh
và Đảng Lao động Việt Nam tin
tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra
trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì
thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy chiến
dịch tấn công Điện Biên Phủ,
đánh bại đội quân viễn chinh nhà nghề được trang bị hiện đại của chính phủ Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền
lực của thực dân Pháp tại
Đông Dương và đưa Võ Nguyên
Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một
vị tướng lừng danh thế giới.
Sau
chiến dịch Điện Biên Phủ, báo chí, truyền thông nước ngoài gọi ông là Napoleon của Việt Nam. So sánh Võ
Nguyên Giáp với Napoléon là sự thể hiện lòng kính trọng và khâm phục về tài
năng quân sự của thế giới đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tuy nhiên, Napoléon-
vị Hoàng đế- danh tướng của nước Pháp đã bị thất trận trước Nguyên soái Kutuzov
tại Bodorino -vùng ngoại ô Moskva, còn Võ Nguyên Giáp đã lãnh đạo Quân đội Nhân
dân Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc. Với tư duy nhạy bén và linh hoạt, Ông đã chỉ huy thành công những
chiến dịch tưởng chừng không thể thắng, đưa ra những quyết định mà có lẽ không
một vị tướng nào dám thực hiện. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ngay
sát giờ nổ súng, để tránh tổn thất binh sĩ, ông hạ lệnh rút hết quân đội, pháo
binh ra khỏi vị trí tác chiến, lùi thời điểm tiến đánh, chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Là
một thầy giáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn lắng nghe, học hỏi, không bao giờ
chủ quan và không bao giờ coi thường ý kiến cấp dưới. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quán
triệt câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì nước ta nhỏ, yếu, nhân dân ta
sẽ ít thôi, không nhiều như Trung Quốc cho nên làm thế nào để thắng địch nhiều
mà tổn thất ít nhất”, chính vì thế, mặc dù chỉ huy một quân đội chính quy,
nhưng ông rất coi trọng chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, lãnh đạo
quân đội vũ trang cách mạng đi từ thắng lợi nầy sang thắng lợi khác, thế giới
đã suy tôn Tướng Võ Nguyên Giáp như là bậc thầy số 1 về chiến tranh du kích. Nhiều
nước thuộc địa trên thế giới học tập Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, đã quyết tâm
đánh đổ thực dân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Mặc
dù không qua một trường lớp quân sự chính quy nào nhưng Võ Nguyên Giáp đã trở
thành đại tướng đầu tiên của quân đội Việt Nam khi mới 37 tuổi. Ông được tôn
vinh là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, Tân bách
khoa toàn thư của nước Anh xuất bản
năm 1985 trong chuyên mục giới thiệu các danh tướng thế giới từ thời cổ đại cho
đến ngày nay, cùng với Hannibal, Kutuzov, Napoléon, Jukov... đã giới thiệu trân
trọng hai danh tướng Việt Nam là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng
Võ Nguyên Giáp.
Nghệ thuật chỉ huy của ông mang đậm
tính nhân văn, thể hiện tâm hồn của một thầy giáo, nhân hậu, nhẹ nhàng đồng
thời quyết đoán, quả cảm. Trong
9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan
trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu
trong nghệ thuật chiến tranh cách mạng. Khi được chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo
chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời
nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ phải quý trọng sinh mạng bộ đội vì Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân. Thượng tướng Trần Văn Trà đã đúc kết: Tướng Giáp là một tổng
tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt
máu của mỗi chiến binh. Chính tư tưởng đó đã định hướng cho
sự phát triển và không ngừng lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này.
Là vị tướng lãnh đạo quân đội thiện
chiến nhưng Võ nguyên Giáp không phải là vị tướng hiếu chiến, chính vì thế, ông
được thế giới ngưỡng mộ, kính trọng, kể cả những người đã từng là bài tướng
dưới tay ông. Trong buổi gặp gỡ cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Robert
McNamara năm 1997, tướng Chester Cooper của phía Mỹ đã bày tỏ thái độ ngưỡng mộ
với Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thưa ngài, tôi
thán phục ngài từ 20 năm trước. Nay tôi vẫn thán phục”. Một cựu
binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam là James G.Zumwalt đã phát biểu: “Tôi chỉ có thể nói rằng, ông ấy là vị tướng vĩ đại nhất
thuộc về một thế hệ vĩ đại nhất của Việt Nam”.
Nhà
báo kiêm sử gia người Mỹ Stanley Karnow (1925 - 2013) là người có mặt tại Việt
Nam từ năm 1959, là tác giả tác phẩm nổi tiếng "Vietnam: A History"
xuất bản năm 1983 đã viết: "Tướng Giáp là một người đặc biệt. Ông vừa là
một nhà hoạch định chính sách, vừa là một sĩ quan trên chiến trường. Người Pháp
đã từng gọi ông là "trái núi lửa phủ băng". Ông là một người đàn
ông lịch thiệp, luôn có chút hài hước khi trò chuyện. Ông ấy đặc biệt thông
minh và có một kiểu bặt thiệp "rất Pháp". Karnow cho rằng, tài
năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào "ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại" như
Wellington, Ulysses S. Grant hay Douglas MacArthur. Nhưng khác với họ, những
chiến tích của ông là bởi nhờ tài năng thiên bẩm hơn là nhờ đào tạo chính quy.
Và Karnow kết luận: "Sau Hồ Chí
Minh, ông là nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20... Ông
ấy giống như một vị thánh. Không có gì khiến ông phải chấp nhận thất bại".
Trong
tác phẩm Võ Nguyên Giáp - Man and Myth
(Võ Nguyên Giáp - con người và huyền
thoại) - xuất bản tại New York năm 1962,
nhà báo, nhà sử học quốc tế gốc Áo Benard Fall (1926-1967) đã có một nhận định
khá “thiên vị”: "Trong một
tương lai có thể thấy trước, phương Tây chưa thể đào tạo được một vị tướng nào
sánh kịp với Võ Nguyên Giáp".
Trong
tác phẩm "Võ Nguyên Giáp - Chiến thắng bằng mọi giá" Giáo sư Cecil B.
Currey giảng dạy lịch sử tại Đại học Nam
Florida, Mỹ. người được đánh giá là một trong những sử gia xuất sắc về lịch sử
chiến tranh đã nhận định, mặc dù không hề qua trường lớp đào tạo về quân sự
ngoài thực tiễn chiến trường và nghiên cứu sách vở nhưng Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã ghi những chiến công huy hoàng. Thắng lợi của Tướng Giáp không chỉ đơn
thuần về mặt quân sự mà còn là những trận toàn thắng về chính trị. Tướng Giáp
và người Việt Nam đã nhấn mạnh sự kết hợp đấu tranh giữa nông thôn và thành
thị. Ông cũng là người xuất sắc ở khả năng động viên và tổ chức quần chúng.
Còn
với Daniel Roussel, đạo diễn người Pháp, nguyên là phóng viên thường trú của
báo L'Humanité (Nhân đạo), người có 7
năm (1980-1986) làm phóng viên thường trú tại Việt Nam, và có nhiều cuộc phỏng
vấn với Đại tướng, "Tướng Giáp không
bị hình ảnh của một anh hùng quốc gia, một nhà chiến lược quân sự có tầm vóc
quốc tế che khuất, ông luôn luôn tỏ ra là một con người rất đỗi bình
thường".
GS Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã bình luận: Một điều rất đặc biệt, trên thế giới rất
hiếm xảy ra. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa là nhà quân sự vừa là nhà sử học, nên
ông vừa làm sử vừa viết sử. Những cuốn hồi ký của ông được viết theo một cách
đặc biệt, thể loại hồi ký nhưng quan sát của người viết luôn đặt trong cách
nhìn toàn cục của một vị thống soái. Đó là kiểu hồi ký mang tính chất lịch sử,
vì thế, đó chính là những cuốn lịch sử sinh động bậc nhất về hai cuộc kháng
chiến.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn
là người vừa làm ra thắng lợi của chiến tranh vừa tổng kết cuộc chiến tranh. Điều
này trước đây Trần Quốc Tuấn đã làm được với Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông
bí truyền thư, nhưng đã thất truyền.... Đại tướng Võ Nguyên Giáp
không viết theo lối binh thư cổ, mà tổng kết theo lối binh thư hiện đại. Hai
cuốn sách có tính chất tổng kết cao nhất, nâng quan điểm của ông lên hệ thống
tư tưởng lý luận là “Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân”
– bàn về việc xây dựng lực lượng vũ trang và “Chiến tranh giải phóng dân tộc và
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc” - tổng kết về chiến lược, chiến thuật, tư tưởng
quân sự Việt Nam trong hai cuộc chiến với hai tính chất khác nhau như vậy.
Chính
vì có tâm hồn của một người thầy giáo, mặc dù là vị tướng bất khả chiến bại
nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn giữ được sự bình thường, gản dị trong đời
sống, gần giũ với các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng, được
suy tôn là người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
GIAO MÙA