Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

Chùm thơ Đồ Gàn về Biển Đông


CHÙM THƠ ĐỒ GÀN

Di truyền

Lòng tham chẳng có bến bờ
Của người mà lại muốn vơ về mình
Còn muốn rinh cả hành tinh
Khiến cho thế giới coi khinh giống nòi
Di truyền kể thật hiếm hoi
Ngàn đời vẫn cứ tham lòi lòng tham
Chơi trò con nít quá phàm
Lại còn ăn nói lam nham cối chày
Mang danh nước lớn đẹp thay
Biển đông nổi sóng biết ngày nào yên
Đồng chí nhỏ hơn đồng tiền
Hòa bình hữu nghị đảo điên đất trời
Coi chừng chọn bạn mà chơi
Di truyền đại Hán ngàn đời máu tham.

 
Láng giềng

Bán anh em xa để mua láng giềng gần
Láng giềng kiểu ấy thì cho chẳng thèm
Bạn nghèo đã khó lại làm khó thêm
Thừa cơ ăn cướp mà quên đạo đời
Hung hăng ngang ngược gây hấn khắp nơi
Vừa la làng vừa ăn cướp coi trời bằng vung
Sống ở đời mà bất nghĩa bất trung
Vô chung vô thủy anh hùng mà chi.

 
Biển gọi

Hàng triệu triệu trái tim của người dân Việt
Đang hướng ra Biển đông nơi tổ quốc gọi về
Nơi những chiến sĩ đang ngày đêm trên đầu sóng ngọn gió
Bảo vệ chủ quyền của biển đảo quê hương. 

Những đoàn tàu của ngư dân ở các hậu phương
Cũng hăm hở ra khơi như những đoàn quân xung trận
Bám biển bám tàu chống kẻ thù xâm lấn
Không ngại hiểm nguy gian khổ coi thường. 

Quân với dân một lòng quyết bảo vệ biên cương
Và thế giới cũng cùng hòa theo nhịp bước
Ủng hộ chúng ta để giữ vững chủ quyền đất nước
Giữ vững hòa bình ổn định ở Biển đông.

Lịch sử đấu tranh của dân tộc ta vẫn mãi tươi hồng
Và chiến tranh là một điều không ai muốn
Nhưng kẻ thù vẫn cố tình gây hấn
Thì chúng ta sẽ quyết một lòng vì tổ quốc phồn vinh.

 

Nhãn tiền

Đời ông cho chí đời cha
Biển Đông chú có chỉ là Hải Nam
Bởi do bản chất tham lam
Đời con chú chiếm biển làm của riêng
Sao không nghĩ lại nhãn tiền
Cổ kim xâm lược tổ tiên được gì
Thế giới tất thảy thị phi
Lòng tham mất cả lương tri con người. 

                                                 28/5/2014
                                                   Đồ Gàn


 

 

 

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

BIỂN ĐÔNG- TRANH CHẤP VÀ HỢP TÁC


BIỂN ĐÔNG- TRANH CHẤP VÀ HỢP TÁC

          Biển Đông nằm trong vành đai của vùng nhiệt đới, khu vực nầy có nhiều đảo và quần đảo phân bố dọc từ bắc xuống nam. Có nơi là quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ như Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, có nơi là đảo lớn như Hải Nam thuộc Trung Quốc, có nơi là quần đảo với những đảo lớn trở thành quốc đảo như Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapor, Bruney.      
                 Là một biển phụ trong Thái Bình Dương nhưng Biển Đông rộng đến 3.447.000km2, đứng hàng thứ ba về diện tích so với các biển khác trên địa cầu.  Nối liền nhiều quốc gia trong vùng châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông từ xa xưa đã là con đường hàng hải quốc tế quan trọng, trong nhiều thế kỷ, hoạt động hàng hải trên Biển Đông rất nhộn nhịp, con đường giao thông trên biển nầy được gọi là Con đường tơ lụa trên biển hoặc con đường gốm sứ, bởi ngoài những mặt hàng như hồ tiêu, trầm hương..., tơ lụa và gốm sứ là hai loại hàng hóa không thể thiếu từ Trung Quốc và Việt Nam đi đến các nước Nam Á và Tây Á. Con đường tơ lụa trên Biển Đông đã nối liền ba đại dương: Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, có vai trò quan trọng trong vấn đề giao lưu thương mại và giao lưu văn hóa giữa các nước phương Đông và phương Tây.
          Trong khu vực Biển Đông, vùng biển thuộc lãnh hải Việt Nam rộng chừng 1.000.000km2, đường đẳng sâu - 100m bao chiếm toàn bộ vịnh Bắc bộ và vịnh Thái Lan và chỉ chạy ép vào gần bờ từ Đà Nẵng đến Phan Rí. Bờ biển nước ta dài 3.260km, hải phận kéo ra ngoài 12 hải lý (trên 22km) và vùng kinh tế biển rộng 200 hải lý tương ứng với chiều rộng của thềm lục địa ở đáy biển, thềm nầy nối dài bờ biển ra ngoài khơi đến độ sâu 200m(1). Mặc dù thềm lục địa nằm ngầm dưới nước nhưng là một phần không thể tách rời với lãnh thổ một quốc gia. Trên Biển Đông, nhiều đảo và quần đảo được nối với đất liền của nước ta thông qua thềm lục địa như Hoàng Sa, Trường Sa, Hạ Long, Bái Tử Long, Hòn Mê, Hòn Chuối, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Phú Quốc, Côn Lôn...
                    Về việc xác định chủ quyền trên các quần đảo xa bờ của Việt Nam, vào thời các chúa Nguyễn, ngư dân vùng biển miền Trung giỏi đánh cá xa bờ,  thuyền câu của họ đã đến tận các đảo ngoài khơi xa nên chúa Nguyễn đã lập các hải đội ra đến Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn để khai thác sản vật, sách Phủ Biên Tạp Lục ghi rõ: Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất... mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng giêng ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch... Họ chèo năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả, ba ngày ba đêm mới đến đảo (Hoàng Sa)... Đến kỳ thì đội Hoàng Sa ấy mới trở về, rồi họ tới thành Phú Xuân trình nạp các vật hạng đã lượm nhặt được.... Chúa Nguyễn còn chọn ngư dân vùng Bình Thuận cho thành lập đội Bắc Hải: Quan trên khiến những người trong đội chèo thuyền tư và thuyền câu nhỏ ra cù lao Côn Lôn ở giữa Bắc Hải, hoặc xứ Cồn Tự thuộc vùng Hà Tiên để tìm kiếm, lượm nhặt những hạng đại-mội, hải-ba, đồn-ngư (cá heo), lực-quí-ngư, hải-sâm(2).
          Trong số các thư tịch cổ của Trung Quốc, đáng chú ý là trong cuốn Chư Phiên Chí (ghi chép về các phiên quốc), Triệu Nhữ Quát - sử gia đời nhà Tống đã ghi lại nhiều sự kiện lịch sử quan trọng từ thời nhà Hán: Năm 111 TCN, sau khi thôn tính Nam Việt “Hán Vũ Đế sai quân vượt biển sang chiếm đất của địch quân (Nam Việt) và đặt ra 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam). Trong thế kỷ thứ I TCN, Hán Nguyên Đế đã rút quân khỏi đảo Hải Nam. Mãi tới đời nhà Lương và nhà Tùy (cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII) mới đặt lại quyền cai trị”. Cuốn sách còn cảnh báo vùng Vạn Lý Trường Sa (tức Hoàng Sa) là nơi nguy hiểm, tàu thuyền Trung Hoa không nên đến gần vì chỉ đi sai lộ trình là có thể bị đắm. Như vậy biên giới cuối cùng về phía nam của Trung Quốc thời nhà Tống chỉ đến đảo Hải Nam. Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Châu Khứ Phi- sử gia thời Nam Tống cũng xác nhận: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) tọa lạc tại Giao Chỉ Dương”. Giao Chỉ Dương hay Biển Giao Chỉ là Vịnh Bắc Bộ ngày nay. Thiên Hạ Thống Nhất Chi Đồ trong Đại Minh Nhất Thống Chí thuộc thời nhà Minh (1461), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635) đã vẽ phần cực nam Trung Hoa là đảo Hải Nam. Trong bộ Hải Quốc Đồ Ký, cuốn Hải Lục của Vương Bỉnh Nam (1820-1842) chép: “Vạn Lý Trường Sa (Hoàng Sa) là dải cát dài ngoài biển được dùng làm phên dậu che chắn mặt ngoài bờ cõi nước An Nam”, như vậy, tư liệu này của Trung Quốc đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ trên biển của Việt Nam. Trong cuốn Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư xuất bản năm 1906 viết như sau: “Điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Châu Nhai thuộc quận Quỳnh Châu (Hải Nam) tại vĩ tuyến 18”. Ngoài ra còn nhiều bản đồ cổ, văn bản cổ khác của Trung Quốc không hề ghi chú về chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo phía nam của Hải Nam.
          Chứng cứ lịch sử như vậy là đã rõ, tuy nhiên ngày nay Trung Quốc lại ngang ngược vẽ ra cái gọi là “Đường chín đoạn” giành trọn bốn nhóm quần đảo, bãi đá ngầm trên biển Đông là quần đảo Hoàng Sa, Quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi Macclesfield, lấn cả vào thềm lục địa của các nước khác, với khoảng 75% diện tích mặt nước của biển Đông, chỉ còn lại khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, và Việt Nam. Đường chín đoạn nầy không hề tuân thủ theo một quy tắc quốc tế nào, vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
          Biển Đông giữ vai trò quan trọng trong hàng hải quốc tế lại có nhiều tài nguyên quý giá, ngoài nguồn hải sản phong phú còn có các loại khoáng sản, đặc biệt là các túi dầu mỏ và khí đốt ẩn dưới lòng biển sâu, đây chính là nguyên nhân gây ra tranh chấp trầm trọng trong thời gian qua. Tình hình căng thẳng gia tăng ở Biển Đông bắt đầu sau khi Trung Quốc đưa quân tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974. Bất chấp luật pháp và công ước quốc tế, Trung Quốc đã đưa quân đồn trú và xây dưng căn cứ quân sự và sân bay trên đảo Hoàng Sa.  Những năm sau đó Trung Quốc tiếp tục chiếm nhiều đảo ở quần đảo Trường Sa. Chắc chắn người dân Việt Nam không thể quên trận chiến ngày 14/3/1988 tại Trường Sa. Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc tàu kéo tấn công các bãi san hô Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Hải quân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu và bảo vệ được hai bãi san hô Cô lin và Len Đao, còn Gạc Ma rơi vào tay Trung Quốc. Tháng 2 năm 1995, Trung Quốc điều 7 tàu đến chiếm đá Vành Khăn (nằm trong cụm Bình Nguyên, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam- Đài Loan và Philippines cũng tuyên bố “chủ quyền” vùng đá nầy). Ðầu năm 1999, càng căng thẳng hơn khi Trung Quốc xây dựng và gia cố nhà nổi bê tông tại Đá Vành Khăn, lắp đặt hệ thống radar vệ tinh và phái lực lượng hải quân chốt giữ dưới vỏ bọc là nhân viên Ngư chính.
          Đảo Ba Bình trong cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa nằm cách đảo Sơn Ca 6,2 hải lí (11,5 km) về phía tây và cách đảo Nam Yết khoảng 11 hải lí (20,4 km) về phía đông bắc, đây là đảo có diện tích lớn nhất Trường Sa. Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer kí Nghị định số 4702-CP sáp nhập một số đảo chính và các đảo phụ thuộc trong quần đảo Trường Sa, trong đó có đảo Ba Bình, vào địa phận tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng thiết lập tại đây một trạm khí tượng mang số hiệu 48.919.  Trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản chiếm đảo làm căn cứ tàu ngầm. Ngày 12 tháng 12 năm 1946, lợi dụng danh nghĩa giải giáp tàn quân Nhật, Trung Hoa Dân Quốc cho tàu chiến đem quân đổ bộ lên đảo Ba Bình. Sau đó, do thất bại trong cuộc nội chiến nên Trung Hoa Dân Quốc phải tháo chạy ra đảo Đài Loan đồng thời rút quân khỏi đảo Ba Bình vào năm 1950. Khoảng năm 1970-1971, Đài Loan đưa quân tái chiếm đóng và xây căn cứ quân sự trên đảo Ba Bình.
          Trong những năm qua, nhiều lần Trung Quốc cho tàu cá xâm nhập đánh bắt trái phép trên vùng biển nước ta, dùng tàu Hải giám truy đuổi, bắt giữ, thậm chí tấn công, phá hoại tàu cá của ta, điển hình vào ngày 08/01/2005, hai tàu của ngư dân Việt Nam trong khi đang đánh cá tại vịnh Bắc Bộ đã bị một tàu cảnh sát biển của Trung Quốc nổ súng tấn công làm chết 9 người, 7 người bị thương và bắt giữ 8 người. Một tàu đánh cá và xác những ngư dân  bị phía Trung Quốc đưa về Hải Khẩu, Hải Nam...
          Philippines và Trung Quốc lâm vào căng thẳng ngoại giao kể từ tháng 4 năm 2013, khi các tàu của chính phủ hai nước đối đầu nhau nhiều tuần liền ở bãi đá Scarborough ở phía đông bắc Biển Đông. Hai nước đều tuyên bố có chủ quyền và quyền liên quan đến bãi đá không người ở này. Mới đây, Trung Quốc yêu cầu các tàu cá nước ngoài phải nhận được sự đồng ý của giới chức trách địa phương nước này mới được đánh bắt hoặc khảo sát ở 2/3 biển Đông từ ngày 1/1/2014. Trung Quốc tuyên bố bất kỳ tàu nào vi phạm quy định về đánh bắt sẽ bị buộc phải ra khỏi khu vực, bị tịch thu đồ đánh bắt và bị phạt tới 82.600 USD. Trong một số trường hợp tàu cá có thể bị tịch thu và thủy thủ trên tàu bị khởi tố theo luật Trung Quốc. Tuy nhiên, luật cấm đánh bắt cá đó đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của nhiều nước trên thế giới, gay gắt nhất là Philippines.
         TS. G. M. Lokshin, Viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Nga đã nhận định: “Những mâu thuẫn gay gắt xung quanh chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo, vùng biển xung quanh và tài nguyên vẫn chưa được giải quyết và ngày càng trở nên trầm trọng. Nguy cơ thực sự về tranh giành quyền sở hữu nguồn năng lượng và nguồn cá ở Biển Đông sẽ làm các cuộc xung đột đó trầm trọng thêm đến mức có thể làm bùng nổ chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc cũng như ở các nước trong khu vực và khiến các sự kiện vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính quyền các nước...”(3) . Những nguy cơ trên là có thật nếu các bên trong khu vực tranh chấp thiếu sự bình tỉnh, bị kích động bởi những hành động cố ý khiêu khích có chủ ý của tàu bè Trung Quốc trên biển Đông.
          Mới đây, Philippiness nộp đơn kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài quốc tế về thực hiện công ước luật Biển 1982. Một số nhà phân tích đánh giá động thái khởi kiện này của Philippines cũng là để tránh đối đầu về quân sự, chuyển sang việc đối đầu về lý lẽ giữa các chuyên gia luật pháp với nhau. Chắc hẳn Philippines hiểu rằng khả năng đối thoại với Trung Quốc để giải quyết vấn đề là không khả thi, còn việc đối đầu trực tiếp có thể dẫn đến xung đột nguy hiểm.
          Về vụ kiện của Philippines, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị bày tỏ quan điểm: “...Việt Nam quan tâm và theo dõi sát tiến trình của vụ kiện này. Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế quản lý để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển của mình được xác lập phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các văn bản pháp lý của Việt Nam.
          Việt Nam sẽ áp dụng mọi biện pháp hòa bình phù hợp và cần thiết, để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán cũng như các lợi ích quốc gia hợp pháp và chính đáng khác của mình ở Biển Đông phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982...”.
         Theo đánh giá của một số nhà phân tích, Trung Quốc sẽ thực hiện chiến lược ổn định quan hệ với các nước láng giềng và thiết lập môi trường hòa bình xung quanh Trung Quốc, nhấn mạnh vào ngoại giao, và tìm kiếm các giải pháp chính trị để giải quyết vấn đề nguồn tài nguyên biển thông qua hợp tác theo nguyên tắc cùng thắng cùng có lợi(4). Tuy nhiên, cho đến nay, chính quyền Bắc Kinh hoàn toàn không chịu nhượng bộ các nước trong khu vực trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, gần đây Trung Quốc lại đưa giàn khoan đến vùng biển của Việt Nam với sự bảo vệ của máy bay và tàu chiến, tấn công tàu đánh cá và tàu Việt Nam đang thực thi bảo vệ chủ quyền trên biển, đây là một hành động leo thang khiêu khích cực kỳ nguy hiểm.
          Trước sự gia tăng căng thẳng của Trung Quốc, Phát biểu trước một ủy ban của Quốc hội Mỹ về tình hình trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực này, Danny Russel, đã phát biểu: “Bất kỳ tuyên bố chủ quyền biển nào của Trung Quốc mà không dựa trên đặc điểm chủ quyền lãnh thổ sẽ là không tuân thủ luật pháp quốc tế”... Còn Đô đốc Greenert khẳng định Mỹ sẽ tôn trọng Hiệp ước phòng thủ chung ký năm 1951 với Philippines, đặc biệt trong bối cảnh mâu thuẫn Manila-Bắc Kinh tăng cao xoay quanh tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông: "Tất nhiên là chúng tôi sẽ giúp các bạn. Tôi không biết sự giúp đỡ ấy cụ thể sẽ là gì. Ý tôi là chúng tôi có nghĩa vụ phải làm vậy, vì có một hiệp ước giữa chúng ta", AFP dẫn lời ông Greenert trong buổi nói chuyện với các sinh viên đại học Quốc phòng ở Manila(5).
          Trước sức mạnh quân sự hiện tại của Trung Quốc, nhiều người lo ngại rằng các nước nhỏ sẽ bị lấn át trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, cần phải nhờ các nước lớn có tiềm lực kinh tế và quân sự như Hoa Kỳ bảo vệ. Tất nhiên, với Philippines, họ có thể dựa vào sức mạnh của đồng minh Hoa Kỳ, riêng Việt Nam, chúng ta cần nhớ rằng, nếu không có sự thỏa thuận ngầm giữa chính quyền Washington với Bắc Kinh thì vào năm 1974, không quân VNCH đã có thể giành lại Hoàng Sa không mấy khó khăn. Gần đây, một số nhà bình luân cho rằng Hoa Kỳ có thể sẽ “đổi” Đài Loan để lấy “Trật tự biển Đông”.
           Như vậy Việt Nam không thể dựa vào nước khác để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Con đường đúng nhất là tranh thủ sự ủng hộ của thế giới bằng các hiệp định hợp tác các bên cùng có lợi trên biển Đông, không để nước nào độc chiếm vùng biển nầy. Hiện nay, ngoài các nước ASEAN đang xúc tiến hợp tác dầu khí với Việt Nam, các quốc gia khác như Nga, Ấn Độ, Mỹ, Anh là những đối tác dầu khí đáng tin cậy của Việt Nam ở Biển Đông, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc hợp tác khai thác đầu khí và hàng hải trên biển Đông với các nước trên thế giới, ngăn chặn bàn tay bành trướng của Trung Quốc. Với hành động mấy ngày gần đây của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam, chúng ta cần tập trung chứng cứ để kiện Trung Quốc ra tòa án Quốc tế. Trong trường hợp họ tiếp tục những hành động khiêu khích, tấn công, ta phải kiên quyết có hành động tự vệ đáp trả thích đáng.
          Với vị thế của Việt Nam hiện nay trên chính trường quốc tế, ta có cách riêng để giải quyết tranh chấp.  Nhà nước ta có những chính sách thể hiện sự tự chủ về mọi mặt, trong đó có chính sách “Ba không” về quốc phòng bao gồm: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.
          Trong nội dung “Những vấn đề cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam” ghi rõ chính sách nhất quán: “...Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc mới nảy sinh bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt Nam. Đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển, mặc dù có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi đối với các vùng biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam vẫn sẵn sàng đàm phán hoà bình để giải quyết các tranh chấp dựa trên các quy định của Công ước 1982 về luật biển của Liên hợp quốc...” Và, mặc dù không chủ trương giải quyết tranh chấp bằng vũ trang, nhưng vẫn thể hiện rõ ý chí kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ: “...Việt Nam chủ trương không đe dọa hoặc sử dụng sức mạnh quân sự trước trong quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hành động xâm lược.”6
----------------

Chú thích:
(1) Lê Bá Thảo. Thiên nhiên Việt Nam. NXB Giáo dục. 2002
(2) Lê Quý Đôn. Phủ Biên Tạp Lục. NXB Khoa học Xã Hội 1977
(3), (4) G. M. Lokshin. Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển. Hội thảo Quốc tế về  Biển Đông lần thứ nhất. Hà Nội tháng 11/2009
(5) Đức Dương. Mỹ sẽ giúp Philippines nếu Trung Quốc chiếm đảo tranh chấp.  VN.Express 14/2/2014
(6) Những vấn đề cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam. Cổng TTĐT Bộ Quốc Phòng.

 

 

Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Lần đầu đi trại sáng tác


Lần đầu đi trại sáng tác

          Số là vào trung tuần tháng tư vừa rồi, tôi may mắn được theo đoàn văn nghệ sĩ của Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật TP Đà Nẵng đi dự trại sáng tác ở Nhà Sáng Tác Quốc Gia Tam Đảo- Vĩnh Phúc. Vui vì được vinh dự tham gia đi thực tế để sáng tác, nhưng lo vì đây là lần đầu tiên tham gia nên chưa biết liệu khả năng của mình có đáp ứng được yêu cầu của lãnh đạo Liên Hiệp đề ra hay không? Nhưng thôi hãy gác mọi lo lắng ấy lại miễn được đi là tốt rồi, có gì hạ hồi phân giải.
          Đoàn của chúng tôi đi có 12 người gồm các bộ môn: Nhiếp ảnh, âm nhạc, thơ, văn và múa. Thời gian đi hơn nửa tháng và hướng đi là về các miền Tây Bắc của tổ quốc. Chủ đề sáng tác là kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, 40 năm thống nhất nước nhà, học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh và tình yêu quê hương đất nước, tình người… Quả thật đó là những đề tài gai góc khó gặm, khó nuốt vì phần lớn đã được các văn nghệ sĩ cây đa cây đề trên toàn quốc phản ánh trên mọi góc độ của nghệ thuật rồi. Và một điều khó hơn nữa là đi tham quan thâm nhập thực tế chỉ như cưỡi ngựa xem hoa, cần phải có thời gian để cho hiện thực khách quan được “tiêu hóa”, thấm vào máu thịt của người nghệ sĩ thì họ mới có đều kiện để sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật.
          Thú thật, sau chuyến đi dài ngày như vậy, mặc dù tôi đã về lại nhà được 2 hôm rồi, song ký ức của chuyến đi đã để lại trong tôi quá nhiều cảm xúc mà cho đến bây giờ tôi như vẫn còn thấy xao xuyến, bồi hồi và những xúc cảm ấy cứ dâng lên trong lòng tôi đến choáng ngợp. Hình như tôi đã bị bội thực bỡi tình đất tình người, bởi những ấn tượng về các di tích lịch sử của dân tộc và bội thực bỡi phong cảnh đẹp tuyệt vời của miền Tây Bắc. Những điều ấy tôi chỉ được học, được đọc qua sách vở, qua các phương tiện nghe nhìn mà cho đến nay tôi mới được đến tận nơi, sờ tận tay, thu cả vào mắt vào lòng. Có lẽ tôi thuộc hạng người tham lam quá chăng?
          Người xưa bảo: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” hay “Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn” quả thật chẳng sai tí nào. Không những học được “một sàng khôn” mà còn học được cả trăm cả ngàn “sàng khôn” nữa ấy chứ! Tuy nhiên, hiện thực khách quan của cuộc sống thì muôn hình muôn vẻ mà sức người cùng khả năng sáng tạo thì có hạn nên chỉ mong sao mình làm được một chút gì đó có ý nghĩa, dù rất khiêm tốn cho cuộc đời này thì đã là hạnh phúc lắm rồi.
          Xin được khất lại kết quả sáng tác của chuyến đi, mà cho phép tôi được kể lại một số cảm xúc của mình trên suốt cuộc hành trình đi và về để gọi là làm một món quà nho nhỏ tặng các bạn GIAO MÙA của tôi đọc cho vui. Và cũng xin các bạn cho phép tôi được lấn sân một chút qua lĩnh vực khác để cho câu chuyện có thêm phần sinh động đỡ buồn chán.
          Chúng tôi khởi hành từ Đà Nẵng, điểm dừng chân đầu tiên là vào viếng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Vũng Chùa -Đảo Yến, Quảng Bình. Chúng tôi theo sự hướng dẫn của các chiến sĩ cảnh vệ vào viếng mộ của Đại tướng trong khung cảnh thành kính trang nghiêm. Đường từ Quốc lộ 1 vào đến mộ Đại tướng đã được tráng nhựa, người ta đang lát 103 bậc tam cấp bằng đã granic màu đen từ dưới chân đồi lên đến mộ của Người. Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình ra đến thành phố Vinh đã là 19g và nghỉ đêm tại đó. Xin được dong dài một chút, sở dĩ xe chạy chậm là do Quốc lộ 1 đang được nang cấp mở rộng từ Nam cho đến Bắc nên sự lưu thông trên đường rất chậm và đầy bụi bặm, vì thế phần lớn các phương tiện ô tô vận tải và xe du lịch đều lên đường Hồ Chí Minh để đi nhờ vậy mà đỡ bị kẹt xe.
          Đến 18g chiều hôm sau, đoàn chúng tôi đến nhà sáng tác quốc gia Tam Đảo ở Vĩnh Phúc. Lúc xe còn ở dưới chân đèo thì hoàng hôn nắng vàng rực rỡ, thế mà khi xe chạy lên giữa chừng đèo thì trời lại mù sương se lạnh và khi xe đến đỉnh đèo thì trời như mùa đông, khói mây mờ mịt. Không chỉ riêng tôi mà mọi người trong đoàn khi xuống xe đều rất ngỡ ngàng trước cái cảnh mây bay bồng bềnh như mình đang ở cõi bồng lai. Chúng tôi dự lễ khai mạc trại và ở lại Tam Đảo một tuần để hoàn chỉnh tác phẩm của mình. Cũng giống như Bà Nà ở quê mình, cũng đèo dốc quanh co và khói sương lãng đãng, nhưng ở Bà Nà thì mức độ sương mù không dày đặc như Tam Đảo, suốt một tuần mà không hề thấy bóng dáng của mặt trời và điều đáng nói là phong cảnh nơi đây thật hữu tình thơ mộng, nhất là các rừng trúc xanh rờn ở các đền chùa miếu cổ trên đỉnh núi cao.
          Những lúc rảnh rỗi, chúng tôi rủ nhau đi dạo quanh phố núi để tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt của người dân nơi đây. Chợ họp ven theo các sườn đồi ngập chìm trong mây khói, người ta cũng buôn bán những thứ hàng tiêu dùng như ở dưới xuôi, đặc biệt ngọn rau su su xanh mơn mỡn như là món hàng đặc trưng ở nơi này. Ban đêm hàng quán cũng hoạt động nhộn nhịp, cũng quán caffe, cũng quán nhậu, cũng những quày hàng bán đồ lưu niệm rất phong phú. Tôi không thuộc hàng đệ tử của Lưu Linh, nhưng theo anh em trong đoàn vào quán nhậu để uống nước chè xanh và chiêm ngưỡng những món nhậu đặc sản của vùng Tam Đảo. Các món nhậu thật lạ mắt lạ miệng như món trứng gà nướng, món rau su su xào tỏi, món thịt hun khói, món thịt heo cắp nách nướng xiên ăn với cơm lam ống nứa. Nhìn chung thì cuộc sống sinh hoạt ở nơi đây cũng khá vui và tỉnh lặng, có lẽ chỉ thích hợp với những tâm hồn mơ mộng suy tư.
          Ngoài nhiệm vụ chuyên môn của mình là sáng tác ca khúc, tôi đã không kìm nén được cảm xúc của mình trước phong cảnh tuyệt vời của Tam đảo nên đã mạo muội lấn sân qua lãnh địa thơ ca. Xin phép ghi lại mấy dòng nầy tặng các bạn đọc cho vui cửa vui nhà.

 
Vấn vương 

Giống như Bà Nà ở Đà Nẵng quê tôi
Cũng nước biếc non xanh cũng suối reo róc rách
Cũng sương mù mênh mang cũng quanh co đèo dốc
Nhưng Tam Đảo lại bồng bềnh bồng bềnh như cõi Bồng lai.
Có tiếng gà gáy gọi bình minh ướt đẫm sương mai
Gọi đến khàn hơi mà mặt trời không đến
Chỉ nghe tiếng suối reo quanh theo sườn núi
Như những cung đàn lay động cả không gian.
Những giàn su su mướt xanh thao thức mơ màng
Những cây thông già nua lắt lay trong gió
Những ngôi nhà liêu xiêu bên dốc đèo quanh co mờ tỏ
Những đợt sương mù sà xuống như níu bước chân ta.
Mây bồng bềnh trôi từng phiến la đà
Như ùa vào lòng như hôn lên tóc
Tam Đảo vẫn lặng thầm không hề mời mọc
Bước chân muốn quay về mà lòng như còn ở lại nơi đây.
 

Đêm phố núi 

Tam Đảo ngày và đêm có khác nhau là mấy
Khái niệm về thời gian cũng chỉ tạm thời
Những ngọn đèn đêm như những con mắt đỏ hoe trong sương khói
Ánh sáng cứ rẫy run theo từng cơn gió ùa về.
Du khách đi chợ đêm trong cái rét tái tê
Phố nhỏ tới lui không đầy mươi phút
Rồi tạt vào mấy cái quán đơn sơ nép mình bên sườn núi
Cùng nhau nhâm chi vài chén ấm lòng.
Ẩm thực đơn sơ nhưng rất lạ và ngon
Trứng nướng lửa hồng và thịt heo cắp nách
Ngọn su su xào,khoai lùi cùng cơm lam ống nứa
Rượu ngoại rượu ta và cả rượu cần
Nhấm nháp vài ly người thấy lâng lâng
Du khách ra về như đi trong huyền ảo
Mới chợt nhận ra đặc sản ở nơi Tam Đảo
Là mây trắng và sương mù đặc biệt nhất trần gian.
 

Nhặt 

Ước gì em có ở đây
Để anh hái nắm mây này cho em
Cài mây lên mái tóc mềm
Giữa chiều Tam Đảo bồng bềnh mây bay
Rượu không uống mà vấn thấy say
Khói sương bàng bạc hết ngày lại đêm
Vi vu gió thổi qua thềm
Suối reo róc rách ngỡ em gọi về
Nghe trong bao nỗi bộn bề
Tiếng đời vang vọng say mê lòng người
Nhặt trong mây khói nụ cười
Của người Tam Đảo ngược xuôi rộn ràng
Tặng em thêm chút đa đoan
Theo dòng Thác Bạc cung đàn nhớ thương.
 

Thiếu và thừa 

Thừa thiếu ở đời thật chẳng đồng cân
Như Tam Đảo thừa mây,thừa mưa và thừa độ ẩm
Nhưng ngày lại thiếu ánh mặt trời sưởi ấm
Đêm rằm thiếu ánh trăng tròn như ở dưới xuôi.
Phố núi mù sương nhưng nào thiếu cuộc vui
Nhưng lại thừa nỗi buồn của những người viễn khách
Như chiều nay giữa muôn trùng xa cách
Giữa mây khói bồng bềnh
Anh thiếu em!

  
Tri ân 

Lên đến Bà Chúa Thượng Ngàn
Ghé qua Đền Mẫu, Chùa Vàng nghe kinh
Trầm hương khói tỏa lung linh
Người người cầu lạy cho mình bình an
Tâm hồn thư thái nhẹ nhàng
Bồng Lai tiên cảnh trần gian đây rồi
Suối reo róc rách quanh đồi
Trúc xanh xanh ngắt bồi hồi mây bay
Bâng khuâng giữa nước non nầy
Nhớ ơn công đức bàn tay con  người
Mưa rơi ướt sũng nụ cười
Giữa vườn Phật tượng cứu người trần gian
Bước chân con cháu ngỡ ngàng
Làm sao hiểu được gian nan ngày đầu
Linh thiêng Quốc Mẫu nhiệm mầu
Lắng nghe con cháu cúi đầu tri ân. 

05.5.2014
Trương Công Ảnh

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

MỪNG SINH NHẬT THÁNG NĂM



MỪNG SINH NHẬT THÁNG NĂM

Chúc mừng sinh nhật các bạn ra đời trong tháng 5:

Lê công Tâm   :        20/05/1957

Trần Thị Bích Hà  :   24/05/1957

Trần Thị Minh Hải  : 25/05/1957

Nguyễn Thị Hạnh  :  27/05/1957

Giao mùa chúc  các bạn cùng gia đình an vui và hạnh phúc.